Thủy phân bánh dầu lạc bằng chế phẩm ENZYM PAPAIN, Mục đích người ta dùng enzyme papain để thủy phân bánh dầu lạc là nhằm cung cấp thêm các acid amin có trong enzyme vào trong bánh dầu, để bổ sung vào thức ăn cho gia súc.
1 Sơ đồ thực hiện phản ứng thủy phân:

Quá trình chuyển từ protein bánh dầu lạc thành acid amin là một quá trình khá phức tạp. Dưới điều kiện thích hợp cho quá trình thủy phân, enzyme sẽ tham gia phản ứng theo sơ đồ sau:
E + S -> ES -> S + P
– Người ta cho rằng ban đầu enzyme sẽ liên kết với cơ chất (bánh dầu lạc), sau đó mới diễn ra sự thủy giải và tạo ra các sản phẩm là các acid amin và các đoạn peptid ngắn.
– Ở đây E là enzyme papain và S là protein bánh dầu lạc, ES là phức hợp trung gian giữa enzyme và cơ chất, P là sản phẩm (chủ yếu là các acid amin và các peptid cấp thấp).
Sự tạo thành và chuyển biến của hợp chất trung gian ES xảy ra qua 3 bước:
Bước 1: Enzyme kết hợp với protein tạo thành phức enzyme – protein (ES).
Bước 2: Có sự thay đổi mật độ điện tử và sự biến dạng hình học của các mối liên kết đồng hóa trị trong phân tử cơ chất S cũng như trung tâm hoạt động của E.
Bước 3: Giai đoạn tạo thành acid amin hay peptid cấp thấp và giải phóng enzyme.
b/ Thuyết minh quy trình chung:
Bánh dầu lạc sau khi được xay nhuyễn ta bổ sung enzyme khô papain và dd đệm phosphate 0.1M để quá trình phân giải bánh dầu nhanh hơn, quá trình thủy phân được thực hiện ở nhiệt độ 150 độ C với pH = 8-8.5, thời gian thủy phân là 1- 2 giờ.
Sau quá trình thủy giải ta đem đi ly tâm nhằm thu dịch lỏng (loại bỏ bã) đồng thời ta bổ sung các chất như O2,O3,H2O2, iodur acetate,…Làm cho enzyme không hoạt động nữa để thu được sản phẩm loãng. Nhưng nhà sản xuất muốn sản phẩm đạt được chất lượng cao và bảo quản dễ dàng hơn người ta thường cô đặc sản phẩm tạo ra sản phẩm khô ở đây ta kết thúc quá trình thủy phân của enzyme papain.
2. Các thay đổi hóa sinh trong quá trình thủy phân:
– Những nghiên cứu về sự liên kết enzyme và cơ chất đề ra giả thuyết: phần lớn các enzyme trở nên hấp thụ với bề mặt ngoài của protein đậu phộng theo một tiến trình tương đối nhanh, sau đó sự khuếch tán những phân tử enzyme vào trong những thành phần này xảy ra chậm hơn. Sự thủy phân những nối peptid của protein đậu phộng có thể chia làm hai pha:
+ Pha nhanh (pha động): xảy ra ở giai đoạn đầu. Trong suốt pha này, một số lớp peptid bị phá hủy trong một đơn vị thời gian và một phần chất hòa tan được phóng thích vào trong dung dịch.
+ Pha chậm (pha tĩnh): tốc độ thủy phân càng về sau càng giảm, tiến trình hầu như ít có sự thay đổi cho đến khi phản ứng thủy phân kết thúc.
3. Tính chất của sản phẩm sau thủy phân
– Tính chất quan trọng nhất của sản phẩm là tính dinh dưỡng. Chiều dài chuỗi peptid của sản phẩm thủy phân có tầm quan trọng đặc biệt. Khả năng hòa tan, khả năng nhũ tương, vị đắng …đều phụ thuộc ít nhiều vào kích thước và trọng lượng phân tử của các loại proteint có trong sản phẩm. Tất cả các sản phẩm thủy phân đều có vị đắng ở những mức độ khác nhau làm hạn chế rất nhiều tính cảm quan của sản phẩm. Vị đắng là nhược điểm chung của các sản phẩm thủy phân với xúc tác enzyme và được cho là có liên quan đến những peptid có trọng lượng phân tử thấp (khoảng 6,000 Da). Ta không thể khử được vị đắng nhưng có thể giảm bớt được bằng cách kiểm soát mức độ thủy phân để cho những peptid có phân tử lượng lớn chiếm ưu thế.
– Việc sử dụng enzyme làm xúc tác có nhược điểm là thủy phân không triệt để, sau thủy phân còn khoảng 20% nitơ tổng số vẫn không tan, do đó người ta thường phối hợp chế phẩm vi sinh thủy phân bằng hóa chất để nâng cao hiệu suất thủy phân.
Để được cung cấp Enzyme Papain Quý khách liên hệ:
Công ty CP Đầu Tư Tuấn Tú
ĐC: Ngõ 2, Đường Liên Mạc, P. Liên Mạc, Q. Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
Điện thoại hỗ trợ khách hàng tại Miền Bắc: 02422050505 – 0914567869
Điện thoại hỗ trợ khách hàng tại Miền Nam: 0945796556 – 0984930099